Thành phần dinh dưỡng từ thịt và cá

Thịt

Thịt có giá trị dinh dưỡng cao nhưng không toàn diện. Đó là một thức ăn quí nhưng không thiết yếu vì những người ăn chay vẫn có thể sống khỏe mạnh. Trước hết thịt là nguồn protein quí, hàm lượng từ 15 – 20 g %. Thành phần acid amin trong thịt cân đối, đặc biệt có nhiều lysin là yếu tố hạn chế ở lương thực. Ngoài protein trong thịt còn có những chất chiết xuất tan trong nước có mùi vị đặc hiệu, khi luộc ra theo nước.

Chủ đề hay:

Lipid trong thịt dao động nhiều liên quan tới loại súc vật, mức độ béo và vị trí miếng thịt. Ví dụ ở thịt lợn béo, mỡ có thể ới 30%, ở thịt bê gầy mỡ không quá 2%. Mỡ động vật có nhiều icid béo no, các acid béo chưa no nhiều mạch kép (PUFA) khoảng 2 – 7%. Chỉ trong mỡ gà có 18% acid linọleic (C18 : 2) và trong mỡ ngựa có 16% linolenic (C16 : 3).

mỡ lợn các lớp ngoài có nhiều acid béo chưa no nhiều nối kép hơn các lớp sâu. Lượng acid béo chưa no ở con vật gầy còm giảm và lượng các cid béo no tăng lên rõ rệt. Do có nhiều acid béo no và liolesterol nên ăn nhiều thịt có ảnh hưởng tới nhiều bệnh mạn tính có liên quan tới dinh dưỡng.

Thịt có giá trị dinh dưỡng cao nhưng không toàn diện
Thịt có giá trị dinh dưỡng cao nhưng không toàn diện

Thịt coi như không có glucid, glycogen và glucose chỉ có lượng rất ít, chủ yếu ở gan và thịt ngựa. Thịt con vật gầy, mệt mỏi ít glycogen nên sau khi giết ít acid lactic và chóng hỏng.

Thịt có nhiều phosphor, kali, sắt nhưng ít calci. Thịt là một thức ăn gây toàn mạnh.

Thịt là nguồn các vitamin B tốt, đặc biệt thịt lợn nạc có rất nhiều vitamin B, (0,90 mg%). Thịt nghèo vitamin c.

Thịt được coi là loại thức ăn sang để đãi khách, khi nhà có tết, có giỗ. Trong chăn nuôi, để sản xuất 1 kg thịt bò cần 7 kg lương thực, 1 kg thịt lợn cần 3,4kg.

>> Xem thêm:

Ăn nhiều thịt kéo theo nhiều chất béo no không có lợi cho Hức khỏe tim mạch. Trong thời kỳ kinh tế chuyển tiếp, lượng thịt sử dụng có khuynh hướng tăng nhanh nên cần duy trì ở mức vừa phải.

Các loại phủ tạng khác với thịt là có nhiều muối khoáng và vitamin hơn nhưng cũng lại có nhiều urê và các chất kiềm purin. Gan, thận, tim có nhiều cholesterol và phosphatid. Não có nhiều cholesterol và phosphatid nhất. Trong gan có nhiều sắt, là thức ăn chống thiếu máu tốt. Trong tiết có đủ acid amin và rất nhiều chất sắt (tiết bò 52 mg %) nhưng phải dùng ngay vì chóng hỏng.

Cá không thua kém thịt về giá trị dinh dưỡng. Lượng protein trong cá dao động từ 16 – 22 g%, thành phần acid amin cân đốì. Lượng tổ chức liên kết ít hơn ở thịt, phân phối đều và hầu như không có elastin nên cá dễ tiêu.

Lượng chất béo dao động từ 1 – 10 g% tùy theo loài, tuổi, mùa và chu kỳ sinh sản, nói chung thấp hơn ở thịt. Tuy vậy trong lipid của cá có nhiều acid béo chưa no (khoảng 60 – 65%) nên rất có giá trị, đặc biệt là các acid béo chưa no nhóm n -3 c<s vai trò tốt với sức khỏe tim mạch. Lipid của cá dễ tiêu nhưng chóng ôi.

Cá là một nguồn vitamin và chất khoáng quí
Cá là một nguồn vitamin và chất khoáng quí

Lượng glucid trong cá không đáng kể, dưới 1% và ở dưới dạng glycogen.

Cá là một nguồn vitamin và chất khoáng quí. Cá nhiều phosphor, ít cálci nhưng cân bằng toan kiềm tốt hơn thịt. Nên ăn cá nhỏ cả xương để có thêm calci. Cá có ít sắt hơn thịt, cá biển có nhiều iod.

Các loài thủy sản thân mềm và có giáp có hàm lượng protein gần giống cá, là một nguồn vitamin và chất khoáng quí. Đáng chú ý các loại thủy sản thân mềm, lọc qua cơ thể một lượng nước lớn vì vậy khi nguồn nước bị ô nhiễm, chúng đã chứa các nguồn vi khuẩn gây bệnh như thương hàn, viêm gan.